VÀNG ĐEN

 

Lừa gạt người Úc da đen – họ được gọi là thổ dân Úc – là thương vụ chính của người Úc da trắng tại những vùng có mỏ vàng nơi sa mạc thuộc phía bắc của Kalgoorlie, Tây Úc, vào những năm xa xôi nào đó, nơi làn sóng đi đào vàng trong sa mạc bùng nổ, trong những năm đầu của quốc gia Úc. Thổ dân Úc từ sa mạc vào thành phố mang theo trên tay những cục vàng đen họ tìm được trong hang hóc nào đó, tận sâu trong sa mạc, trong hang động, trên núi đồi và mang ra phố chợ bán, chỉ với một phần trăm trị giá thật của cục vàng. Có thể họ biết rằng mình bán vàng với giá quá rẻ, nhưng họ chẳng cần, vì tận nơi sa mạc họ đang ở, chứa một cục vàng trong nhà cũng chẳng ích lợi gì.

Một ngày kia, một  người chuyên mua bán vàng với thổ dân nhìn tôi, vừa cười vừa nói:

-       Anh biết không, nếu một thổ dân tìm được một cục vàng trị giá mười ngàn đô la và chúng tôi trả cho anh ấy năm trăm đô la, ảnh sẽ nghĩ rằng Giáng Sinh đã về trên cuộc đời anh ấy và gia đình. Đối với anh ấy, cục vàng chỉ là một cục đất màu vàng, không có giá trị gì. Vả lại, có tiền rồi, họ chỉ đi uống rượu cho hết mà thôi.

-       Còn các anh mang vàng nộp cho kho vàng ngân khố quốc gia, phải không?

-       Không. Anh mang đến quán rượu để bán.

-       Tại sao vậy? Vàng có giá ấn định của chính phủ mà.

-       Đúng vậy. Nhưng nơi quán rượu anh bán được giá hơn nhiều.

-       Tại sao người ta lại mua vàng với giá cao tại quán rượu?

Người mua bán vàng với gương mặt như một tướng cướp, vừa khôn quỷ, vừa nham hiểm, vừa ngu đần, nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên như anh đang gặp người  ngu từ cung trăng mới rơi xuống đất:

-       Anh bạn ơi, có những người có loại đồng tiền họ phải giấu. Thí dụ như tiền mua bán cần sa ma túy, tiền cờ bạc, tiền do cướp của, hoặc tiền mà anh không muốn sở thuế biết đến. Anh phải làm sao?

-       Làm sao?

-       Anh đến vùng đất này, xin thuê một miếng đất để đào vàng. Mỗi tối anh vào quán rượu. Sẽ có những người thổ dân đến bán vàng họ tìm được cho anh. Anh mua với giá rẻ mạc trả bằng tiền mặt, không giấy tờ, không chứng cớ gì cả. Và anh mang vàng ấy đến kho vàng của chính phủ, nói rằng anh đã đào được từ miếng đất anh đang thuê. Chính phủ trả tiền vàng cho anh theo giá qui địnnh. Không thuế.

-       Đơn giản vậy sao?

-       Đơn giản vậy đó.

-       Vậy anh mua vàng từ người thổ dân à?

-       Đúng vậy, rẻ hơn là đi đào vàng.

-       Anh chỉ trả mười phần trăm trị giá của vàng và bán lại hơn trị giá thật đến mười phần trăm ?

-       Đúng vậy. Kiếm tiền thật dễ và không ai bị tổn thương cả.

Tôi phải nghĩ rằng nếu trong người mình còn một chút gì gọi là lòng thành thật thì không thể hành nghề mua bán vàng ở đây được. Tôi còn phải học hỏi nhiều lắm. Tôi đến đây để tìm vàng như hàng ngàn người Úc da trắng khác. Tôi đã mướn một cái lều và đã bỏ ra một thời gian ngắn để tìm. Tôi đã tìm thấy gì ? Bầu trời xanh, thật cao và thật rộng. Chung quanh là đất sa mạc, sa mạc và sa mạc. Trong sa mạc này chắc chắn có vàng, nhưng điều mắt tôi thấy là sa mạc. Lái xe vòng vòng cả ngày, không được gì cả nên đã dừng lại tại một quán rượu và đã gặp người bạn da trắng mua bán vàng.

Khi trở về lều, tôi giật mình thấy một người thổ dân đang đứng đợi. Làn da mặt đen cháy nắng sa mạc của anh được che khuất một phần nhờ chiếc nón rộng vành anh đang đội. Anh to lớn, vạm vỡ như một con trâu nước, mũi xẹp, gương mặt đầy bụi đường. Anh mặc một chiếc quần tả tơi và không mặc áo. Tôi đoán rằng anh chỉ khoảng bốn mươi tuổi nhưng đến gần thì trông anh già hơn tuổi. Anh cùng đi với hai người đàn bà thổ dân và vài con chó. Hai người đàn bà và mấy con chó không hề chú ý, đếm xỉa đến tôi, họ để việc mua bán hoàn hoàn do anh thổ dân lo liệu.

Anh đến gần tôi, giới thiệu tên và nói Anh ngữ bằng một giọng hơi khó nghe, đặc sệt nên tôi đoán rằng Anh ngữ không phải là ngôn ngữ chính của anh. Anh vào đề ngay:

-       Tôi từ sa mạc vào đây. Anh có muốn mua vàng không?

-       Đưa tôi xem anh có gì.

Anh thò tay vào chiếc bị đang mang trên lưng và móc ra một cục vàng, to bằng nắm tay của tôi. Anh để cục vàng vào lòng bàn tay anh và xè tay ra trước mặt tôi. Tôi giơ tay cầm và gần đánh rơi cục vàng xuống đất vì không ngờ nó quá nặng, có thể nặng đến khoảng 800 grams. Theo giá vàng hiện đại, cục vàng này trị giá 30.000 đô la nhưng vì nó quá lớn, có thể được dùng để nghiên cứu về vàng nên giá trị càng cao hơn nữa.

-       Anh thích không?

-       Thích chứ, nhưng... (Tôi nhớ mình chỉ có 3000 đô la trong người.)

-       Anh mua không?

-       Mua chứ, nhưng ...

-       Anh đưa tôi một ngàn đô.

-       Cái gì? Một ngàn đô?

Tôi nuốt nước bọt trong cổ liên tục. Tôi biết máu mình không có nhiều chất thành thật chảy bên trong và đây là cơ hội kiếm được 30.000 đô la một cách ngon lành và hợp pháp. Nhưng rồi tôi lại nghĩ lừa gạt một thổ dân chẳng hay ho gì, nên tôi buột miệng:

-       Anh có biết cục vàng này trị giá ba mươi ngàn đô la không?

-       Vậy sao ?  người thổ dân nhìn tôi trân trân.

-       Ba mươi ngàn đô la đó anh bạn.

-       Anh đưa tôi một ngàn.

-       “Anh không hiểu. Nó trị giá ba mươi ngàn đô la.” Tôi chợt nghĩ có lẽ người Úc da đen này không hiểu con số nên tiếp tục:

-       Tôi sẽ chở anh đến quán rượu, sẽ có người mua với giá ba mươi ngàn đô.

Trên đường lái xe đến quán rượu, tôi nghĩ mình đã dấn thân khá sâu vào việc mua bán này. Trừ phi anh thổ dân cương quyết giữ giá ba mươi ngàn đô, anh chắc chắn sẽ bị lừa. Và tôi hồi họp xem việc gì sẽ xảy ra.

Bước vào quán rượu, người thổ dân không nói một lời, dường như tư tưởng anh bị bận rộn với ý nghĩ sẽ làm gì với ba mươi ngàn đô la.

Quán rượu đông người như thường lệ. Tôi nhận ra được anh bạn bán vàng mình vừa quen và tiến đến anh ấy.

-       Anh bạn ơi, người này có vàng muốn bán, anh biết ai muốn mua vàng không?

Anh bán vàng nhìn tôi cười trêu chọc: “Anh nói thật cho anh bạn này giá trị của cục vàng rồi phải không?”

Tôi cười ngại ngùng: “Tôi có nói.”

-       Đừng lo. Sẽ có người mua. Trên thế giới này, mỗi một phút đều có một tên ngu ra đời.

Thử anh chàng ngoại quốc đang ngồi ở góc kìa.

“Người ngoại quốc” này nổi bật vì ăn mặc thật sạch sẽ, với chiếc áo safari và mang vớ cao. Cả ba chúng tôi cùng tiến đến người ngoại quốc. Anh thổ dân nói với hai chúng tôi “Để tôi nói chuyện.”

-       Anh muốn mua vàng?

Người ngoại quốc trả lời: “ Đó là lý do tôi có mặt nơi đây.” Anh nói Anh ngữ với giọng Đức.

Người thổ dân đưa ra cục vàng trên tay và hỏi: “Anh thích ?”

Người ngoại quốc cầm cục vàng, xem xét thật kỹ và hỏi: “Bao nhiêu ?”

Thổ dân trả lời: “Một ngàn.”

Tôi nóng mũi, vội chen vào: “Hey! Sao vậy/”

Người ngoại quốc quắc mắt nhìn tôi, sẵn sàng bước vào cuộc chiến. Anh bạn bán vàng khéo léo và kín đáo giật tay áo của tôi.

Người ngoại quốc gật đầu: “Tôi đồng ý mua với giá này,” vừa nói anh vừa thò tay vào túi lấy tiền.

Tôi vội nói: “Khoan, khoan” nhưng rồi chợt ngưng lại. Người thổ dân có quyền bán món hàng của anh ấy với giá anh muốn, chẳng việc gì đến tôi, sao tôi lại muốn can thiệp vào. Lạ lắm, cả quán rượu ngừng nói chuyện, và trong bầu không khí yên lặng khó thở, mọi người nhìn chăm chăm bốn người chúng tôi để xem việc gì sẽ xảy ra.

Tôi la lên với người thổ dân: “Anh khoan đã. Tôi bằng lòng mua cục vàng này và sẽ trả cho anh ba ngàn đô la.”

Anh bạn bán vàng níu tay tôi: “Ông nội ngu ơi, ông sẽ bị giết tại nơi đây. Đừng chen vào chuyện của người ta.”

Người ngoại quốc nhìn tôi lạnh lùng đầy sát khí, như đang sẵn sàng rút dao găm trong túi ra bất cứ lúc nào: “Tôi đã đồng ý mua với giá một ngàn đô.”

Tôi mau mau móc túi, đếm đủ ba ngàn đô la, cầm trên tay và giơ số tiền ra trước mắt anh thổ dân. Tôi biết rằng mình vừa cạn túi, nhưng tin rằng sau khi mua cục vàng này với giá ba ngàn, tôi sẽ bán lại được với một số lời không ít.

Đôi mắt người thổ dân đảo lia lịa, từ bàn tay nắm số tiền ba ngàn của tôi đến bàn tay của người ngoại quốc với một ngàn đô. Sau cùng, đôi mắt anh dừng lại ở bàn tay của tôi và anh từ từ đưa tay ra để nhận tiền.

Người ngoại quốc la lên: “Khoan đã. Tôi bằng lòng trả ba ngàn đô la.”

Người thổ dân nhận số tiền người ngoại quốc vừa đếm xong để trao cho anh đang khi tôi hét lên: “Anh bạn ơi, vàng của anh trị giá mười lần hơn số tiền này.”

Người thổ dân nhìn tôi, chẳng nói một lời. Qua đôi mắt đen láy và làn da đen bóng của anh, tôi chẳng đọc được tư tưởng nào nên cũng chẳng hiểu anh nghĩ gì.

Người ngoại quốc nhanh tay để cục vàng vào chiếc bị anh đang mang trên vai và vội vã bước ra khỏi quán rượu nhưng cũng đủ thì giờ nhìn tôi một cách giận dữ :

-       Đừng xen vào chuyện của người khác.

Người bạn bán vàng của tôi chen vào “Đúng vậy, đừng ngu mà chen vào chuyện của người khác. Thôi, mọi chuyện xong rồi, để tôi mua cho anh một ly nhé.” Và trong sự kinh ngạc của tôi, anh quay sang người thổ dân và gọi đúng tên, hỏi: “Anh muốn uống gì?”

Người thổ dân trả lời:

-       Volka và nước cam.

Người bạn bán vàng của tôi nhắn nhủ người thổ dân:

-       Anh uống nhanh đi và dông cho rồi. Coi chừng anh mua vàng người Đức ấy trở lại. Xem chừng anh ta là một người nguy hiểm.

Tôi kinh ngạc: “ Chuyện gì đây? Mấy người làm gì đây?”

Anh bạn bán vàng nhún vai: “Thổ dân này mới vừa bán cho anh Đức đó một cục sắt nhúng trong vàng, chỉ có vàng bọc bên ngoài thôi.”

-       Cái gì?

-       Ảnh làm trò này đã lâu rồi. Lấy cục sắc nhúng trong vàng và đem bán. Nhưng dĩ nhiên chỉ bán cho người khách lạ mặt đến đây lần đầu. Tất cả chúng tôi ở đây đều biết anh ấy mà.

-       Nhưng làm sao làm được?

-       Đơn giản thôi. Anh ấy nấu vàng, xong nhúng những cục sắt vào, và đem bán. Nếu một người Úc da trắng đứng đây bán vàng trong quán rượu này, anh ta không qua mặt nổi người mua vàng đâu, vì người mua bán không tin người da trắng. Nhưng với một người thổ dân từ trong sa mạc đến đây để bán vàng... thì khác.

-       Nhưng ... anh chàng người Đức...

Anh bạn bán vàng nhìn tôi đầy ái mộ: “Anh đẩy giá trị cục sắc ấy lên đến ba ngàn đô la. Anh thổ dân hôm nay thật trúng mánh.”

Lúc bấy giờ người thổ dân mới lên tiếng: “Cám ơn anh bạn nhé – giọng nói của anh không còn đặc sệt nét của người không thông thạo Anh ngữ – Đáng lẽ tôi phải mua cho anh một ly, nhưng có lẽ bây giờ tôi phải đi ngay.”

Trên đường đưa người thổ dân trở về trại, tôi không khỏi không thắc mắc, thắc mắc lần cuối cùng trước khi tôi rời khỏi nơi đây và có thể không trở lại nữa:

-       Xin hỏi anh nhé, vàng ở đâu mà anh dùng để nhúng sắt vậy?

Người thổ dân quay sang nhìn tôi:

-       Tôi mua ở quán rượu chứ đâu.

 

Đoàn Thu Cúc